Phân tích chuỗi giá trị là gì? Bản chất và vai trò của phân tích chuỗi giá trị trong kinh doanh? Đây đều là những vấn đề khiến nhiều người gặp băn khoăn khi làm việc với chuỗi giá trị. Trong bài viết này, Luận Văn 24 sẽ giúp bạn giải quyết những khó khăn thắc mắc này một cách rành mạch nhất.
1. Khái niệm chuỗi giá trị
1.1. Khái niệm chuỗi giá trị theo Michael Porter
Phương pháp chuỗi giá trị được Michael Porter đưa ra vào những năm 1980 trong cuốn sách “Lợi thế cạnh tranh: Tạo lập và duy trì thành tích vượt trội trong kinh doanh” xuất bản vào năm 1985, được dịch sang tiếng Việt vào năm 2009 26, tr. 71-106. Khái điểm về giá trị gia tăng trong khuôn khổ chuỗi giá trị được coi như là yếu tố để tạo đến và duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững của một tổ chức trong kinh doanh ở thế kỷ 21.
Theo Michael Porter, khái điểm chuỗi giá trị được sử dụng nhằm giúp các doanh nghiệp có thể tìm ra các lợi thế cạnh tranh (thực tế và tiềm năng) của mình. Ông cho rằng, một công ty có thể cung cấp cho khách hàng một sản phẩm hay một dịch vụ có giá trị tương đương với đối thủ cạnh tranh của mình với chi phí thấp hơn hoặc chi phí cao hơn nhưng có những đặc tính mà khách hàng mong muốn.
Porter đã lập luận rằng, đều nhìn vào một doanh nghiệp như là một tổng thể những hoạt động, những quá trình thì khó, thậm chí là không thể, tìm ra được một cách chính xác lợi thế cạnh tranh của họ là gì. Nhưng điều này có thể thực hiện được dễ dàng khi phân tách thành những hoạt động bên trong.
Theo cách đó, Porter phân biệt rõ giữa các hoạt động cơ bản hay những hoạt động chính, trực tiếp góp phần tăng thêm giá trị cho sản xuất hàng hóa (hoặc dịch vụ) và các hoạt động hỗ trợ có ảnh hưởng gián tiếp đến giá trị cuối cùng của sản phẩm.
Trong đó, những hoạt động cơ bản bao gồm:
- Hậu cần bên trong: hoạt động tiếp nhận, quản lý dự trữ các nguyên vật liệu và phân phối những nguyên vật liệu này đến những đối trong doanh nghiệp theo yêu cầu của kế hoạch sản xuất.
- Hoạt động tác nghiệp: quá trình chuyển đối những đầu vào thành sản phẩm và dịch vụ cuối cùng.
- Hậu cần bên ngoài: việc quản lý dự trữ và phân phối sản phẩm cuối cùng của doanh nghiệp.
- Marketing và bán hàng: xác định nhu cầu của khách hàng và bán hàng.
- Dịch vụ: hoạt động hỗ trợ sau khi sản phẩm và dịch vụ đã được chuyển cho khách hàng như là lắp đặt, hậu mãi, giải quyết khiếu nại, đào tạo,…
Những hoạt động hỗ trợ bao gồm:
- Cơ sở vật chất của doanh nghiệp: bao gồm những yếu tố như là cơ cấu tổ chức, hệ thống kiểm soát, văn hóa công ty,…
- Quản lý nguồn nhân lực: tuyển dụng lao động, thuê lao động, đào tạo, phát triển và thù lao lao động.
- Phát triển công nghệ: các công nghệ hỗ trợ cho các hoạt động tạo ra giá trị gia tăng.
- Mua hàng: mua các yếu tố đầu vào như là nguyên vật liệu, công nghệ, thiết bị, và các dịch vụ đầu vào khác…
Lợi nhuận của một doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào việc doanh nghiệp thực hiện các hoạt động hiệu quả như thế nào. đều doanh nghiệp biết cách tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm và khách hàng sẵn sàng trả cho giá trị này thì doanh nghiệp đã tạo ra được thặng dư về giá trị.
Michael Porter đề xuất một doanh nghiệp có thể có được lợi thế cạnh tranh của mình nhờ tập trung vào chiến lược giá thấp hoặc tạo ra sự khác biệt của sản phẩm hay dịch vụ, hay là kết hợp cả hai cách thức này.
Mô hình chuỗi giá trị ông đưa ra đã được coi như một công cụ lợi hại đề phân tích lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua việc trả lời câu hỏi: “ở hoạt động nào thực sự là doanh nghiệp có lợi thế hơn những đối thủ cạnh tranh khác?” và “doanh nghiệp sẽ cạnh tranh dựa vào chi phí thấp, sự khác biệt của sản phẩm hay dịch vụ hay là kết hợp của cả hai yếu tố trên?”.
1.2. Chuỗi giá trị theo phương pháp tiếp cận toàn cầu Kaplinsky và Morri
Đều như khái điểm chuỗi giá trị của Michael Porter đề cập đến ở trên chỉ tập trung nghiên cứu ở quy mô của doanh nghiệp, thì Kaplinsky và Morri trong cuốn “Value Chain Handbook” năm 2001 lại mở rộng ở phạm vi của chuỗi giá trị. Theo các tác giả này, chuỗi giá trị là tập hợp các hoạt động bao gồm sản phẩm từ khi mới chỉ là ý tưởng, qua các giai đoạn sản xuất khác nhau, phân phối đến người tiêu dùng và cuối cùng là vứt bỏ sau khi sử dụng.
Hai tác giả này có đưa ra hai khái điểm về chuỗi giá trị: chuỗi giá trị đơn giản và chuỗi giá trị mở rộng. Theo họ thì chuỗi giá trị đơn giản (được minh họa trong hình 1.2) bao gồm bốn hoạt động cơ bản trong một vòng đối sản phẩm là thiết kế và phát triển sản phẩm, sản xuất, marketing và cuối cùng là tiêu thụ và tái sử dụng.
Quan điểm về chuỗi giá trị này được áp dụng đề phân tích toàn cầu hóa, cụ thể là đó được sử dụng đề tìm hiểu cách thức mà các công ty và các quốc gia hội nhập toàn cầu và đề đánh giá các yếu tố quyết định đến phân phối thu nhập toàn cầu.
Kaplinsky và Morris cho rằng phân tích về chuỗi giá trị cho thấy giữa các hoạt động có liên quan đến vòng đối của sản phẩm có mối liên hệ với nhau một cách chặt chẽ. Những hoạt động này không chỉ được thiết lập theo một chiều dọc mà còn tác động qua lại lẫn nhau.
Ví dụ, bộ phận thiết kế và phát triển sản phẩm không chỉ có ảnh hưởng đến, thậm chí quyết định bản chất, của quá trình sản xuất mà còn ảnh hưởng đến đối dung của hoạt động marketing. Ngược lại, hoạt động marketing cũng góp phần ảnh hưởng đến hoạt động thiết kế và phát triển sản phẩm, vì trong quá trình này người ta luôn phải tính đến việc sản phẩm sẽ được đưa ra thị trường như thế nào.
Chuỗi giá trị mở rộng đề xuất một mô hình phức tạp hơn mô hình giản đón rất nhiều bởi đó tính đến cả liên kết thượng nguồn và liên kết hạ nguồn của doanh nghiệp, nghĩa là tính đến liên kết ngành dọc trong quá trình từ khi các yếu tố đầu vào được tạo thành cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
2. Phân tích chuỗi giá trị
2.1. Bản chất của phân tích chuỗi giá trị
Theo Michael Porter, phân tích chuỗi giá trị là một phương pháp có hệ thống nhằm nghiên cứu sự phát triển của lợi thế cạnh tranh của một đối tượng nào đó. Michael Porter cho rằng, khi phân tích chuỗi giá trị cần chú ý đến hai yếu tố cấu thành quan trọng là các hoạt động khác nhau và các mối liên kết trong chuỗi giá trị.
Đối với các hoạt động khác nhau, ông đã chia ra thành hai loại là: các hoạt động chính (hậu cần bên trong, các hoạt động tác nghiệp, hậu cần bên ngoài, marketing và bán hàng và dịch vụ) và các hoạt động hỗ trợ (quản lý nguồn nhân lực, mua hàng, phát triển công nghệ, …). Việc chia hệ thống thành các hoạt động hay các chức năng như vậy đối hỏi các hoạt động hay chức năng này cần được xem xét trong mối quan hệ qua lại đối bộ tổ chức.
Porter đã mô tả rằng chuỗi giá trị là những hoạt động có liên kết đối bộ. Sau này, nhiều tác giả vẫn cho rằng đây là một sự mô tả tương đối rắc rối. Yếu tố cấu thành thứ hai mà Porter đề xuất là khái điểm chuỗi giá trị đã liên kết và gọi chuỗi giá trị đa liên kết đây là hệ thống giá trị. Hệ thống giá trị về cơ bản là mở rộng ý tưởng của ông về chuỗi giá trị đến các liên kết lẫn nhau trong một hệ thống.
Vấn đề này về sau một lần nữa được đưa ra đề xem xét nhưng cũng với quan điểm không sáng sủa gì hơn của Womack và Jodos khi họ nghiên cứu về sản xuất tinh gọn. Họ đã sử dụng cụm từ dòng chảy giá trị đề thay thế cho cụm từ chuỗi giá trị được sử dụng phổ biến.
Hiện tại, Luận Văn 24 đang cung cấp dịch vụ tư vấn thuê làm tiểu luận, luận văn ngành kinh tế, tài chính. Nếu bạn bận rộn không có thời gian để hoàn thành hay gặp bất cứ khó khăn nào trong việc hoàn thành bài luận, hãy để chúng tôi đồng hành cùng bạn giải quyết mọi vấn đề. Với kinh nghiệm và đội ngũ trình độ cao, chúng tôi cam kết sẽ mang đến cho bạn nhiều lợi ích nhất.
2.2. Đối tượng của phân tích chuỗi giá trị
Có nhiều cách thức đề phân tích chuỗi giá trị. đối dung phân tích chuỗi giá trị dưới đây được đề xuất trên cơ sở kết hợp từ nhiều cách tiếp cận khác nhau như cách tiếp cận của Michael Porter, Kaplinsky và Morries 65, dự án M4P 1, và dự án hợp tác giữa Bộ Thương mại của Việt Nam, GTZ và Metro Vietnam 3, 4 và 5.
Để phân tích chuỗi giá trị, người ta cần thực hiện những bước công việc sau:
Bước 1: Xác định chuỗi giá trị cần phân tích
Trước khi tiến hành phân tích chuỗi giá trị, cần phải quyết định xem sẽ lựa chọn sản phẩm/ hàng hóa/ hay ngành nào đề phân tích. Do các nguồn lực là có hạn cho đến cần phải cân nhắc và đưa ra các tiêu chí để lựa chọn. Các tiêu chí lựa chọn sản phẩm hay ngành đề phân tích thường tập trung vào những vấn đề sau:
- Sản phẩm hoặc ngành nằm trong chiến lược phát triển của vùng, ngành hoặc quốc gia;
- Có tiềm năng phát triển hoặc có khả năng nhân rộng;
- Có tính bền vững về môi trường;
- …
Như vậy, sau khi đã căn cứ vào những tiêu chí mà người nghiên cứu đưa ra, người nghiên cứu đóng thời xác định mức đó quan trọng của những tiêu chí, từ đó xếp hạng những sản phẩm hay ngành đề phân tích và quyết định lựa chọn chuỗi giá trị nào đề phân tích.
Sau khi xác định chuỗi giá trị cần phân tích, chủ thể nghiên cứu cần xác định mục tiêu của việc phân tích chuỗi giá trị. Thông thường, việc phân tích chuỗi giá trị là nhằm thấu hiểu toàn bộ những công đoạn/ quá trình trong một tổ chức hay một ngành nhằm mục đích tìm ra cơ hội đề cải tiến chuỗi giá trị đó cho có hiệu quả cao hơn đối với những người đang tham gia chuỗi giá trị hoặc là thêm hay bớt đi một vài công đoạn/ quá trình trong chuỗi giá trị nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn.
Ở một góc nhìn khác, có thể ví như là sự dịch chuyển lên hoặc dịch chuyển xuống của chuỗi giá trị. Việc phân tích chuỗi giá trị đề cập đến cơ cấu các mối quan hệ và cơ chế điều phối tồn tại giữa các bên tham gia trong chuỗi giá trị. Ở góc đó chính sách, có thể hiểu phân tích chuỗi giá trị là việc xây dựng, điều chỉnh, sắp xếp thể chế nhằm nâng cao năng lực của chuỗi giá trị.
Công việc cuối cùng trong lựa chọn chuỗi giá trị cần phân tích là xác định điểm bắt đầu phân tích chuỗi giá trị, nghĩa là xác định phạm vi phân tích trong chuỗi giá trị. Tùy theo sự quan tâm mà người ta có thể phân tích toàn bộ các quá trình hay hoạt động trong một chuỗi chuỗi giá trị nào đó hoặc chỉ tập trung phân tích những hoạt động có liên quan đến mục đích nghiên cứu.
Điều này làm phát sinh một công việc là lựa chọn điểm bắt đầu phân tích chuỗi giá trị. Chẳng hạn như, đều đối tượng nghiên cứu tập trung vào các hoạt động mua hàng thì điểm bắt đầu nghiên cứu sẽ là các hoạt động kế tiếp của hoạt động mua hàng trở về phía trước của chuỗi giá trị.
Tương tự như vậy, đều đối tượng nghiên cứu là các hoạt động thiết kế thì điểm bắt đầu phân tích chuỗi giá trị sẽ là hoạt động tiếp theo của hoạt động thiết kế trở về trước.
Bước 2: Lập sơ đồ chuỗi giá trị
Lập sơ đồ chuỗi giá trị có nghĩa là sử dụng những minh họa thường là các mô hình, bảng, ký hiệu hay hình thức khác nhằm cung cấp thông tin để hiểu sâu hơn về những thông tin của chuỗi giá trị được phân tích. Để làm được công việc này, người nghiên cứu chuỗi giá trị cần tập trung vào những công việc sau:
- Công việc 1: Nhận diện các quá trình trong chuỗi giá trị
Câu hỏi đầu tiên cần thiết phải trả lời khi phân tích bất kỳ một chuỗi giá trị nào là “Chuỗi giá trị có những quá trình nào?”. Nguyên tắc là người phân tích cần xác định và phân biệt được các qui trình chính mà nguyên liệu thô luân chuyển qua trước khi đến giai đoạn tiêu thụ cuối cùng.
Theo đó, chuỗi giá trị của doanh nghiệp này bao gồm 6 quá trình chính như được trình bày ở hình vẽ trên. Trong đó, có các quá trình có thể được tách ra thành những công đoạn sản xuất độc lập là (1) thiết kế, (2) sản xuất nguyên phụ liệu, (3) mua hàng, (4) may bao gồm cắt, may và hoàn thiện, (5) xuất khẩu, và (6) phân phối bao gồm marketing và phân phối sản phẩm.
- Công việc 2: Xác định các đối tượng tham gia các quá trình
Khi các quá trình đã được lập thành sơ đồ, người nghiên cứu chuỗi giá trị cần xác định xem những chủ thể tham gia chuỗi giá trị là những đối tượng nào và họ làm những công việc cụ thể gì. Để có thể làm được như vậy, người nghiên cứu cần phải cố gắng chia nhỏ các quá trình thành những bước công việc chi tiết hơn đóng thời xác định những đối tượng khác nhau vào trong những bước công việc đó.
Để có thể thông hiểu thông tin này, người nghiên cứu cần tập trung vào trả lời những câu hỏi sau:
- Các đối tượng tham dự những quá trình trong chuỗi giá trị là ai?
- Những đối tượng đây làm việc gì?
Cách phân loại tốt nhất là phân loại theo nghề nghiệp, phân loại theo vị trí công việc hoặc là theo công đoạn mà họ tham gia vào quá trình sản xuất hay cung cấp dịch vụ.
Bước 3: Xác định những sản phẩm dịch vụ trong chuỗi giá trị
Sau khi đã xác định được những quá trình chính trong chuỗi giá trị và hiểu được những đối tượng tham gia vào chuỗi giá trị cũng công việc mà các chủ thể này thực hiện, người phân tích chuỗi giá trị cần hiểu trong chuỗi giá trị có những sản phẩm hay dịch vụ nào.
Đây không phải là một công việc khó bởi vì chỉ cần đi theo những giai đoạn mà một sản phẩm cụ thể trải qua từ lúc là nguyên liệu thô đến khi thành thành phẩm, thông qua việc gọi tên và mô tả sản phẩm từ giai đoạn đầu tiên đến giai đoạn cuối cùng (có sắp xếp theo trật tự của quá trình sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ) mà người ta có thể xác định được những thông tin này.
Sau khi đã hoàn thành việc mô tả sản phẩm của từng quá trình của chuỗi giá trị, người nghiên cứu cần phải xác định xem giá trị của sản phẩm thay đổi như thế nào theo từng quá trình đó. đối cách khác, ở bước này, người nghiên cứu sẽ xác định giá trị gia tăng của sản phẩm hay dịch vụ của mỗi quá trình như thế nào.
Đây là một công việc khó khăn bởi sản phẩm bao gồm hai phần cấu tạo là phần cứng và phần mềm. Với phần cứng, người ta dễ dàng lượng hóa giá trị được, nhưng phần mềm thì không phải khi nào cũng dễ dàng lượng hóa được.
Tuy nhiên, đề thông hiểu chuỗi giá trị, đây là một công việc cần thiết vì chỉ khi phân tích đối dung này mà người ta mới có thể đánh giá được việc đóng góp của mỗi một quá trình/ công đoạn vào giá trị của sản phẩm cuối cùng. Cách mô tả giá trị của sản phẩm hay dịch vụ đơn giản nhất là nhìn vào các giá trị được tạo thêm ở mỗi bước của cả chuỗi giá trị.
Một số những dữ liệu giúp người ta có được thông tin đây là doanh thu, cơ cấu chi phí, lãi và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư.
Bước 4: Lập sơ đồ dòng luân chuyển sản phẩm hay dịch vụ về mặt địa lý
Trong đối dung phân tích này, người phân tích chuỗi giá trị cần lập một bản đó địa lý thực tế theo dấu sản phẩm hoặc dịch vụ của chuỗi giá trị. sơ đồ luân chuyển sản phẩm hay dịch vụ về mặt địa lý được bắt đầu từ đối bắt nguồn và kết thúc tại đối hàng hóa được phân phối cho khách hàng. Loại sơ đồ này cho người ta thấy được sự khác biệt về địa phương hoặc vùng của các công đoạn sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ.
Sau khi ‘‘hiệu ứng đàn sếu” xảy ra, nghĩa là sau khi một được tham gia vào hoạt động gia công xuất khẩu, song vì trình độ công nghệ phát triển cao hơn, quốc gia này từ bỏ hoạt động gia công may, thì thông thường quốc gia này đã tích lũy cho mình được nhiều hoạt động có liên quan và vẫn duy trì những hoạt động này.
Ví dụ, mặc dù gần như không còn thực hiện hoạt động gia công xuất khẩu, nhưng những quốc gia như Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông,… có những trung tâm thiết kế mẫu và các trung tâm sản xuất nguyên phụ liệu là địa chỉ tìm đến của những công ty may gia công xuất khẩu ở các quốc gia khác.
Bước 5: Xác định các hình thức liên kết và xác định những sản phẩm hay dịch vụ có liên quan
Công việc quan trọng cần thực hiện trong đối dung lập sơ đồ chuỗi giá trị là lập sơ đồ các mối liên kết giữa những người tham gia trong chuỗi giá trị. Để thực hiện công việc này, người ta cần tổng kết lại xem có những đối tượng nào tham gia vào chuỗi giá trị (đã trình bày ở bước 2 ở trên), những người tham gia có những quan hệ nào.
Các mối quan hệ có thể tồn tại giữa các bước của quá trình khác nhau (ví dụ, người sản xuất và người phân phối) và trong cùng một quy trình (ví dụ, người sản xuất với người sản xuất).
Theo đó, có những loại liên kết sau đây:
- Liên kết thiết kế – sản xuất nguyên phụ liệu
Các nhà thiết kế trao đổi thông tin với các nhà sản xuất phụ liệu đề đảm bảo là sản phẩm mà họ thiết kế khả thi. Mối quan hệ giữa nhà thiết kế và các nhà sản xuất nguyên phụ liệu là rất khăng khít. Do đó, trong gia công may xuất khẩu thực hiện bởi những quốc gia đang phát triển, thông thường các nhà thiết kế chính là những nhà phân phối và họ cũng là người chỉ định cho những công ty may gia công đối mà họ có thể mua nguyên phụ liệu.
- Liên kết thiết kế – may
Các nhà thiết kế, đều không phải là những đơn vị nhỏ của các tập đoàn có thể thực hiện hoạt động may xuất khẩu, cần tìm những đơn vị này đề hiện thực hóa ý tưởng của họ thành những sản phẩm hoàn chỉnh.
- Liên kết thiết kế – xuất khẩu: như đã trình bày ở trên, thiết kế có thể có liên kết chặt chẽ, thậm chí chính là tổ chức thực hiện hoạt động xuất khẩu.
Bước 6: Phân tích các quá trình của chuỗi giá trị
Sau khi đã lập sơ đồ chuỗi giá trị, người nghiên cứu cần phân tích chuỗi giá trị trên một số khía cạnh như doanh thu, chi phí, lợi nhuận, giá trị gia tăng, công nghệ, liên kết,… Việc phân tích chuỗi giá trị được thực hiện căn cứ vào những quá trình hoặc đối tượng tham gia chuỗi giá trị. Không phải phân tích chuỗi giá trị nào cũng sử dụng tất cả những chỉ tiêu này mà người ta căn cứ vào mục tiêu phân tích chuỗi giá trị đề lựa chọn chỉ tiêu phân tích.
Chẳng hạn như đều mục tiêu phân tích chuỗi giá trị là tìm hiểu về việc phân phối lợi ích thì người ta tập trung chủ yếu vào doanh thu, giá trị gia tăng, lợi nhuận. Mục tiêu phân tích chuỗi giá trị là tìm ra những biện pháp đề đối mới và nâng cấp chuỗi giá trị thì người ta tập trung chủ yếu vào giá trị gia tăng, công nghệ, việc làm, liên kết…
Bước 7: Rút ra các kết luận
Việc phân tích chuỗi giá trị bao giờ cũng là đề phục vụ một mục đích nào đó như là phân phối lợi ích thích hợp, đối mới và nâng cấp chuỗi giá trị, tìm ra những khó khăn trong việc tham gia chuỗi giá trị và hướng giải quyết, xây dựng chiến lược hoạt động, tăng cường mức độ tham gia vào chuỗi giá trị…
Vì vậy, sau khi phân tích chuỗi giá trị người nghiên cứu cần rút ra những kết luận nhằm tạo cơ sở cho những giải pháp được đề xuất của mình.
2.3. Lợi ích của phân tích chuỗi giá trị
Việc phân tích chuỗi giá trị mang lại lợi ích to lớn cho các cá nhân và các tổ chức trên phương diện tìm kiếm cơ hội thâm nhập chuỗi giá trị hoặc cải tiến chuỗi giá trị. Những phần trình bày dưới đây mô tả những lợi ích đó:
- Nhận dạng lợi thế cạnh tranh
Phân tích chuỗi giá trị giúp các doanh nghiệp xác định và hiểu chi tiết hơn các công đoạn trong chuỗi giá trị của sản phẩm, từ đó doanh nghiệp có thể xác định được lợi thế cạnh tranh đang nằm ở công đoạn nào để có chiến lược đối với sự phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế cạnh tranh sẵn có.
Có thể nói rằng, khi xu hướng toàn cầu hóa ngày càng tăng lên mạnh mẽ, kéo theo là xu hướng chuyên môn hóa, việc phân tích chuỗi giá trị là một ñòi hỏi tất yếu để các tổ chức có thể xác định được những điểm mạnh và điểm yếu của mình.
Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế, khi việc tận dụng các nguồn lực sẵn có là vấn đề ưu tiên, phân tích chuỗi giá trị thực sự là hữu ích đối với các doanh nghiệp.
- Cải tiến hoạt động
Việc hiểu rõ chuỗi giá trị giúp các doanh nghiệp hoàn thiện hay nâng cấp những hoạt động. Trên cơ sở hiểu rõ những điểm mạnh, điểm yếu của các yếu tố có liên quan đến chuỗi giá trị bao gồm doanh thu, chi phí, lợi nhuận, công nghệ, kiến thức, lao động, … cũng như hiểu rõ về hiệu quả của quá trình cung cấp sản phẩm hay dịch vụ, doanh nghiệp sẽ có những điều chỉnh đối với những yếu tố này nhằm tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn.
- Tạo cơ hội đánh giá lại năng lực
Phân tích chuỗi giá trị là cơ hội đánh giá lại năng lực của doanh nghiệp. Như đã trình bày trong nội dung phân tích chuỗi giá trị, thông qua việc phân tích các yếu tố liên quan bao gồm chi phí, lợi nhuận, công nghệ, kiến thức, lao động,… Việc phân tích chuỗi giá trị là thực sự cần thiết bởi nó giúp doanh nghiệp nhận rõ đặc điểm của từng công đoạn trong chuỗi giá trị cũng như hiệu quả hay giá trị gia tăng được tạo ra trong công đoạn đó.
Kết quả là doanh nghiệp sẽ có những đánh giá cả chủ quan và khách quan về hiệu quả của việc thực hiện công đoạn này, qua ñó tạo cơ sở cho việc xây dựng chiến lược hoạt động cho doanh nghiệp.
Kaplinsky và Morri quan sát được rằng, trong quá trình toàn cầu hóa, khoảng cách thu nhập trong và giữa các được tăng lên. Các tác giả đây lập luận rằng phân tích chuỗi giá trị có thể giúp giải thích quá trình này. Trong khuôn khổ chuỗi giá trị, các mối quan hệ thương mại quốc tế được coi là một phần của các mạng lưới những nhà sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu và bán lẻ, trong đó, tri thức và quan hệ được phát triển để tiếp cận được các thị trường và các nhà cung cấp.
Như vậy, việc phân tích chuỗi giá trị mở rộng sẽ giúp doanh nghiệp đánh giá được năng lực của mình trong chuỗi giá trị này.
- Phân phối thu nhập hợp lý
Phân tích chuỗi giá trị giúp doanh nghiệp thực hiện việc phân phối thu nhập hợp lý. Bằng cách lập sơ đồ những hoạt động trong chuỗi, một phân tích chuỗi giá trị phân tích tổng thu nhập của một chuỗi giá trị thành những khoản mà các bên khác nhau trong chuỗi giá trị nhận được.
Để có được những đánh giá khách quan về sự đóng góp của các ñối tượng tham gia vào chuỗi giá trị, việc phân tích chuỗi giá trị là cách duy nhất để có được những thông tin đó.
- Cân bằng quyền lực
Một phân tích chuỗi giá trị có thể làm sáng tỏ việc các chủ thể tham gia vào các công đoạn của chuỗi, doanh nghiệp, vùng và quốc gia được kết đối với nhau và kết đối với đến kinh tế toàn cầu như thế nào.
Việc xem xét các mối liên kết trong chuỗi giá trị (xác định liên kết, nguyên nhân của liên kết và lợi ích của liên kết) chính là cơ sở để các doanh nghiệp tăng cường hay củng cố các mối liên kết giữa những chủ thể tham gia chuỗi nhằm tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mức độ tham gia của các doanh nghiệp trên các thị trường thay đổi do thị trường xáo trộn, thì việc xem xét những mối liên kết này thực sự cần thiết và là cơ sở để đưa ra những quyết định chiến lược về việc thâm nhập, gìn giữ hay phát triển thị trường.
Trên đây là bài viết tham khảo cung cấp kiến thức đầy đủ để bạn hiểu được khái niệm phân tích chuỗi giá trị cũng như vai trò của nó. Trong quá trình tìm hiểu, nếu có bất kì ý kiến thắc mắc xin liên hệ qua hotline 0988 55 2424 của Luận Văn 24 để được đội ngũ chuyên gia tư vấn giúp đỡ.
Nguồn: Luanvan24.com
Tôi là Thu Trà, hiện tại tôi là Quản lý nội dung của Luận Văn 24 – Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn uy tín. Chúng tôi đặt lợi ích của khách hàng là ưu tiên hàng đầu. Website: https://luanvan24.com/ – Hotline: 0988552424.